Thúc đẩy vai trò của cộng đồng trong bảo vệ và phát triển rừng bền vững

Thúc đẩy vai trò của cộng đồng trong bảo vệ và phát triển rừng bền vững

Viet Nam - 01 August, 2023

Việt Nam là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học, một trong 16 quốc gia sở hữu sự đa dạng sinh học cao nhất trên toàn cầu với các nguồn gen quý, hiếm. Tuy nhiên với các áp lực đe dọa từ mất rừng, suy thoái sinh cảnh sống, ô nhiễm môi trường, bệnh dịch, biến đổi khí hậu, sinh vật ngoại lai… đặc biệt là việc sử dụng tài nguyên không hợp lý đã đe dọa đến 58,5% loài thực vật và 86,1% loài động vật; hoạt động nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản đe dọa đến 52% số loài thực vật và 39,3% loài động vật; phát triển khu dân cư và cơ sở hạ tầng đã đe dọa đến 49,3% loài động vật. Số loài bị đe dọa cấp độ toàn cầu phân bố ở Việt Nam theo Danh lục Đỏ IUCN (2021) là 891 loài động vật và 367 loài thực vật.

Tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên, đến hết năm 2022, diện tích rừng trong khu vực là 8,18 triệu ha (chiếm 55,3% diện tích rừng của cả nước). Trong đó: 5,87 triệu ha rừng tự nhiên, 2,31 triệu ha rừng trồng; Diện tích rừng khu vực miền Trung là 5,61 triệu ha, diện tích rừng khu vực Tây Nguyên là 2,57 triệu ha; tỷ lệ che phủ rừng khu vực miền Trung đạt 54,22%, Tây Nguyên đạt 46,32%.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách về bảo vệ, phát triển rừng trong khu vực. Trong đó, đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ che phủ rừng tại khu vực Tây Nguyên đạt hơn 47%, khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đạt ổn định 54%; nâng cao đời sống, sinh kế cho người dân gắn với rừng.
Tuy nhiên, hiện nay, rừng ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên vẫn đang chịu nhiều thách thức.
Tình trạng dân di cư tự do vẫn còn phức tạp. Đặc biệt, tại các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn khoảng hơn 16 nghìn hộ chưa được bố trí ổn định vào các điểm dân cư theo quy hoạch và đời sống của người dân vẫn còn nhiều khó khăn. Các hộ dân di cư tự do chủ yếu sống ở khu vực bìa rừng, vùng sâu, vùng xa, đường giao thông đi lại rất khó khăn; tình trạng di dân kéo theo việc phá rừng, lấn chiếm đất rừng để sản xuất; gây áp lực lên công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Bên cạnh đó, tình trạng mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp trên đất lâm nghiệp vẫn còn diễn ra. Trong đó, nguyên nhân chính là đất lâm nghiệp bị xâm lấn rừng trái phép để sản xuất nông nghiệp, trồng cây công nghiệp có giá trị của người dân địa phương, dẫn đến mất rừng ở Tây Nguyên.
Ngoài ra, tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng vẫn diễn ra phức tạp; Đầu tư cho công tác bảo vệ và phát triển rừng tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên chưa tương xứng.
Thúc đẩy vai trò của cộng đồng trong bảo vệ và phát triển rừng
Tại COP26, Việt Nam đã có cam kết mạnh mẽ về việc đạt mức phát thải ròng bằng “0” năm 2050. Bên cạnh đó, để hướng đến nền kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh thì phát triển, bảo vệ rừng có vai trò quan trọng trong hấp thụ, lưu giữ carbon. Ngoài ra, với những quy định mới của Liên minh châu Âu (EU) về sản xuất và thương mại nông sản không được gây mất rừng và làm suy thoái rừng, đòi hỏi các nhà sản xuất, doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà phân phối cũng cần phải xem xét lại chiến lược phát triển nếu muốn hướng đến thị trường EU giàu tiềm năng. Những điều này đặt ra vấn đề làm sao để quản lý, phát triển rừng nói chung, rừng tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên hiệu quả.
Tại hội thảo “Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững khu vực Miền Trung và Tây Nguyên lần thứ IV” với chủ đề “Phát triển lâm nghiệp bền vững” do Tropenbos Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Đà Nẵng, Trung tâm Bảo tồn Đa dạng sinh học Nước Việt Xanh (GreenViet) diễn ra tại Đà Nẵng trong 2 ngày 28 và 29/7, nhiều chuyên gia, nhà bảo tồn đa dạng sinh học cho rằng cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển lâm nghiệp để thúc đẩy nâng cao hiệu quả, phát huy giá trị đa dụng của rừng; kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng tự nhiên, mặt nước có giá trị bảo tồn; giữ gìn và phát huy văn hóa cộng đồng với phát triển lâm nghiệp bền vững (các phong tục bảo vệ rừng của đồng bào dân tộc thiểu số, lễ tạ ơn, lễ cúng rừng); phát triển nguồn nhân lực chất lượng phục vụ phát triển lâm nghiệp bền vững; duy trì và nhân rộng các mô hình phục hồi rừng… Đặc biệt là có chính sách hỗ trợ sinh kế người dân tại vùng đệm từ đó, thu hút sự quan tâm, tham gia của người dân vào quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.